(Hoinhabaoghean.vn) - Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Đại tướng Chu Huy Mân (1913- 2023), xin giới thiệu đôi nét về cuộc đời hoạt động binh nghiệp và những đóng góp to lớn của Đại tướng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, người được Bác Hồ đã vinh danh là Tướng “Hai Mạnh”.
Đại tướng Chu Huy Mân
Chu Huy Mân tên thật là Chu Văn Điều, sinh ngày 17/3/1913 tại làng Yên Lưu, tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là làng Phong Hảo, xã Hưng Hòa, TP Vinh, Nghệ An). Năm 16 tuổi, anh tham gia cách mạng, để che mắt địch, Chu Văn Điều nhiều lần thay họ, đổi tên: Chu Huy Mân, “Vũ Chân”,“Lê Thế Mỹ”;“Trần Thanh Lạc”,“Hồ Thạch Châu”. Năm 1954-1960, được Đảng và Bác Hồ giao nhiệm vụ làm chuyên gia quân sự tại nước Lào, gọi là “Tướng Thao Chăn”; rồi Tướng“ Hai Mạnh” (mạnh cả Quân sự và Chính trị). Tuy nhiều lần đổi tên và bí danh khác nhau nhưng cái tên “Chu Huy Mân” đã được Đại tướng dùng đến trọn đời. Riêng cái tên kỷ niệm “Hai Mạnh” gắn liền với những hình ảnh và tình cảm được Bác Hồ khen, động viên và giao nhiệm vụ thì được anh em chiến sĩ rất yêu quý và kính trọng.
Chu Văn Điều sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đông con, cha mất sớm, mẹ phải tần tảo làm thuê cuốc mướn để nuôi con. Lớn lên trong cảnh đói nghèo, hàng năm cứ đến mùa nạp sưu, thuế, những người trong gia đình luôn bị bọn địa chủ và lý trưởng trong làng đánh đập, ức hiếp. Mối thù nhà, nợ nước chồng chất, Điều quyết nuôi chí phục thù. Giữa năm 1929, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, Ban chấp hành Trung ương Đông Dương Cộng sản đảng đã cử các đồng chí: Nguyễn Phong Sắc (quê ở Hà Nội) và Trần Văn Cung (quê Nghi Lộc) vào thành phố Vinh hoạt động để xây dựng các tổ chức cách mạng, thành lập các tổ chức: Công hội Đỏ, Nông hội Đỏ, Hội Tán trợ, xúc tiến thành lập Đông Dương Cộng sản đảng của Xứ ủy Trung Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ, phong trào cách mạng ở Nghệ An đã phát triển mạnh và chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác.
Là một thanh niên yêu nước, khi được tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, Chu Văn Điều hăng hái tham gia giao thông liên lạc cho các đồng chí Lê Mao, Nguyễn Thức Mẫn và chị Nguyễn Thị Vĩnh (tức Minh Khai), vận động nông dân làng Yên Lưu gia nhập tổ chức Nông hội Đỏ. Ngày 29/10/1929, dưới sự lãnh đạo lãnh đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng, Chu Văn Điều sát cánh cùng 300 nông dân đi đấu tranh đòi giảm sưu cao, thuế nặng cho nông dân. Nhân kỷ niệm lần thứ 12 Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917- 7/11/1929), Chu Văn Điều cùng những thanh niên trong làng đi rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm trên các cây cao, đình làng và nơi nhân dân họp chợ đông người. Truyền đơn và khẩu hiệu ủng hộ cách mạng tháng Mười Nga có nội dung: “Đánh đổ thực dân Pháp và phong kiến Nam triều”;“ Công nhân làm việc 8 giờ, nông dân có ruộng cày”, khí thế đấu tranh hùng dũng của nông dân làm cho Chu Văn Điều như sáng mắt sáng lòng.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chu Văn Điều được các đồng chí Lê Mao, Lê Doãn Sửu, Nguyễn Thức Mẫn tin tưởng giao làm đội phó Đội tự vệ. Trong các cuộc đấu tranh ngày 1/5/1930 và ngày 12/9/1930, Chu Huy Mân dũng cảm, giương cao cờ đỏ búa liềm, dẫn đầu đoàn biểu tình, vừa trấn áp kẻ thù vừa bảo vệ dân làng đi đấu tranh. Vào một đêm đông tháng 11/1930, Chi bộ đảng làng Yên Lưu tổ chức làm lễ kết nạp Chu Văn Điều vào đội ngũ những người Cộng sản tại nhà đồng chí Chu Văn Chín, khi anh 17 tuổi.
Cuối năm 1930, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, để duy trì và bảo vệ công tác tuyên truyền, cơ quan ấn loát của Xứ ủy Trung Kỳ phải chuyển từ nhà Mẹ Lộc ở Bến Đền (Vinh) về nhà ông Đinh Hồ ở xóm Đồng Mả, Yên Lưu (nay là làng Phong Đăng, xã Hưng Hòa, TP Vinh). Chu Văn Điều được cử làm đội trưởng đội Tự vệ Đỏ, có nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí: Nguyễn Thị Phúc, Chu Văn Biên, Nguyễn Lập và Nguyễn Thị Thảo, cơ quan ấn loát của Xứ ủy Trung Kỳ. Chu Huy Mân đã chỉ huy Đội tự vệ làng Yên Lưu tổ chức, vận động nam, nữ thanh niên tham gia luyện tập quân sự, bảo vệ quần chúng trong các cuộc đấu tranh và trừng trị bọn phản cách mạng, lấy lúa của nhà giàu chia cho dân nghèo, lấy ruộng đất công của làng xã đem chia cho những gia đình nghèo, mở các lớp học chữ Quốc ngữ cho nhân dân, tập văn nghệ, bài trừ mê tín dị đoan, tổ chức đám cưới, đám tang theo đời sống mới.
Đề phòng khi cơ sở ấn loát ở nhà ông Đinh Hồ bị lộ, Chu Huy Mân đã tìm thêm địa điểm mới là nhà Bõ Kinh, làm nghề chài lưới bên sông Rào Đừng giáp với huyện Nghi Lộc phòng khi địch khủng bố dễ có đường rút lui. Mặc dù kẻ địch đã cho bọn mật thám dò la, lùng sục trong thời kỳ khủng bố trắng, nhưng truyền đơn, báo chí của Đảng kêu gọi và định hướng đấu tranh, báo Người Lao khổ của cơ quan Xứ ủy Trung kỳ, báo Tiến Lên của Tỉnh uỷ Nghệ An vẫn được in ấn đều, phân phát đến tận các Chi bộ để cổ vũ và uốn nắn công nông đấu tranh chống khủng bố trắng, giảm bớt tổn thất cho cách mạng.
Tháng 6/1931, do có kẻ phản bội chỉ điểm, cả hai cơ sở ấn loát tại nhà ông Đinh Hồ và nhà Bõ Kinh cạnh bờ sông đều bị địch vây ráp, đồng chí Chu Văn Biên đi phân phát tài liệu trở về đã bị bọn lính đón bắt. Chu Huy Mân bình tĩnh cất dấu hết tài liệu và dụng cụ in ấn rồi dẫn đồng chí Nguyễn Thị Phúc ven theo bờ sông, ông Lê Văn Trường làm nghề chài lưới bắt cá trên sông đã chở qua xã Nghi Thái (huyện Nghi Lộc) thoát thân. Chu Huy Mân chạy vào làng đánh lạc hướng bọn địch để giải thoát cho chị Phúc. Đồng chí đến nhà bà Đinh Thị Giới xóm Phong Yên, lách cửa bếp vào nhà. Chờ bọn lính rút khỏi làng, ông Trường liền dẫn Chu Huy Mân xuống Đền Bà Cô ẩn náu. Ông Trường là tộc trưởng dòng họ Lê, người cầm chìa khóa trông coi và hương khói ở Đền Bà Cô, hàng ngày vợ chồng ông lo cơm nước, nuôi Chu Huy Mân cho đến khi không còn bọn lính rình mò thì mới chèo đò đưa sang huyện Nghi Lộc, nơi cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ đang đóng.
Năm 1935, nhiều đồng chí tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh bị bắt đã được ra tù, đồng chí Chu Huy Mân và Võ Trọng Ân (người làng Phù Xá, phủ Hưng Nguyên) đã tìm bắt liên lạc với các đồng chí Tỉnh ủy Nghệ An và huyện Nghi Lộc, bí mật họp tại nhà thờ Chi Cụ Tú Lang ở làng Phù Xá, khôi phục lại các Chi bộ của phủ Hưng Nguyên, đồng chí Chu Huy Mân được bầu làm Bí thư Phủ ủy, Võ Trọng Ân làm Phó Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của Phủ ủy, các tổ chức quần chúng cách mạng hoạt động rất sôi nổi. Sau thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), thực dân Pháp trở mặt, ra lệnh truy lùng vây bắt các chiến sĩ Cộng sản ở Nghệ Tĩnh, kể cả các đồng chí vừa được ra tù.Tháng 5/1940, Chu Huy Mân, Võ Trọng Ân và lớp đảng viên ở Nghệ An đều bị bắt giam tại Nhà lao Vinh. Chu Huy Mân,Võ Trọng Ân lần lượt bị đày giam ở các nhà tù: Ngục Kon Tum, Buôn Ma Thuột, Đăk Tô. Trong các nhà tù đế quốc, kẻ thù đã dùng mọi âm mưu thủ đoạn, tra tấn cực hình, rồi mua chuộc dụ dỗ, nhưng vẫn không làm Chu Huy Mân sờn lòng nản chí. Những ngày trong tù, đồng chí luôn giữ vững niềm tin, đoàn kết đấu tranh, sẵn sàng tìm thời cơ để vượt ngục. Tháng 3/1943, Mặt trận Việt Minh hoạt động mạnh, Chu Huy Mân, Nguyễn Duy Trinh, Huỳnh Ngọc Huệ, Hà Thế Hạnh đã bí mật tổ chức vượt ngục thành công, theo đường 19 tìm về Nghệ An. Trên đường đi, bị bọn lính và mật thám truy lùng, Chu Huy Mân bàn với các chiến sĩ vượt ngục ở lại để tham gia vào Ban Việt Minh của tỉnh Quảng Nam, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chu Huy Mân được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, sau đó được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quân chính 4 tỉnh Trung bộ, Xứ ủy Trung Kỳ. Khi nước nhà giành được độc lập, Chu Huy Mân làm Chủ tịch Ủy ban quân chính Khu C (gồm Quảng Nam, thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng Bình), Chính trị viên Mặt trận đường 9 Đông Hà -Xavanakhẹt.
Tháng 12/1946, đồng chí Chu Huy Mân được Trung ương Đảng điều động ra Việt Bắc làm Trưởng Ban Kiểm tra xây dựng Đảng Quân khu ủy Việt Bắc. Sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Trung đoàn trưởng Trung đoàn 72, Bí thư Đảng ủy, Trung đoàn 74 Cao Bằng, Chính ủy Trung đoàn 174 Cao - Bắc-Lạng. Tháng 5/1951, đồng chí giữ chức Phó Chính ủy, rồi Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn 316, chỉ huy Đại đoàn tham gia các chiến dịch lớn. Ngày 13/3/1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy Đại đoàn 316, chỉ huy bộ đội đánh các trận: đồi C1; C2, đồi A1, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, tham gia trận đánh cuối cùng bắt tướng Đờ Cát, góp phần lập công vào“Chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu”.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực hiện lời dạy của Bác Hồ“Giúp bạn chính là giúp mình”, với tinh thần quốc tế cao cả, tháng 5/1957, Chu Huy Mân được Trung ương điều động sang Sầm Nưa để giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang. Năm 1958, Chu Huy Mân được phong quân hàm Thiếu tướng. Ông luôn được Đảng, Quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào yêu mến gọi là “Tướng Thao Chăn”. Sau đó, Chu Huy Mân nhận được lệnh Trung ương Đảng điều động giữ chức vụ Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu Bốn, rồi làm Bí thư Đảng ủy Quân khu Tây Bắc.
Tháng 12/1960, lần thứ hai, Chu Huy Mân được Đảng và Bác Hồ điều động làm Tổng cố vấn cho Chính phủ Liên hiệp Lào. Năm 1961, Chu Huy Mân trở về nước làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Quân khu bốn. Năm 1962, đồng chí được Quân đội cử sang Liên Xô học tại Học viện Phowrunde. Cuối năm 1963, khi chiến trường Khu 5 gặp nhiều khó khăn, Chu Huy Mân được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ vào chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 5 chiến đấu. Năm 1964, được Bộ Chính trị và Bác Hồ tin tưởng giao làm Chính ủy Quân khu, Bí thư Khu ủy Liên khu 5, Chu Huy Mân đã góp công lớn vào các chiến thắng Ba Gia, Núi Thành, Vạn Tường, rồi xây dựng vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai... Tháng 9/1965, sau chiến thắng Chu Lai, với biệt danh“Hai Mạnh”, Chu Huy Mân đã có một quyết định táo bạo: Không mở chiến dịch giải phóng Bắc Tây Nguyên mà chuyển sang mở chiến dịch Plâyme - Ia Đrăng. Là Bí thư Đảng ủy,Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận B3-Tây Nguyên, Chu Huy Mân lãnh đạo và chỉ huy tài tình, táo bạo, chiến dịch Plâyme, quân đội ta đã tiêu diệt gọn 305 lính Mỹ, buộc quân Mỹ phải thừa nhận:“Một trận chiến đấu làm thay đổi cục diện chiến tranh”.
Với kinh nghiệm đánh địch của một anh Tự vệ Đỏ năm 1930, Chu Huy Mân đã đúc rút kinh nghiệm để có những trận quyết chiến huyền thoại trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của “Anh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Năm 1974, với tài giỏi chỉ huy và có nhiều sáng kiến, đa tài, đức độ, xứng danh “ Hai Mạnh”, Chu Huy Mân được thăng quân hàm vượt cấp, từ Thiếu tướng lên Thượng tướng.Trong chiến dịch năm 1975, Chu Huy Mân là Chính ủy giải phóng Đà Nẵng và một số đảo. Năm 1980, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Chu Huy Mân được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được BCH TƯ Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Trưởng ban Kiểm tra Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (1977- 1986), phụ trách công tác giúp cách mạng Lào, Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc (1980). Đồng chí Chu Huy Mân là Đại biểu Quốc hội các khóa: II,VI,VII, được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII (1981-1986) là Ủy viên BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam các khóa II, IV,V, Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV và V…
Do tuổi cao sức yếu, cùng với những vết thương bị tra tấn trong các nhà tù đế quốc và bom đạn ở chiến trường, ngày 1/7/2006, Đại tướng Chu Huy Mân đã trút hơi thở cuối cùng trong niềm thương tiếc vô hạn của gia đình, đồng chí và đồng đội, hưởng thọ 93 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội.
Chu Huy Mân, vị Đại tướng đa tài, bản lĩnh, nhạy cảm, trí tuệ và rất tình cảm, được Bác Hồ vinh danh là “Hai Mạnh”. Với 76 năm tuổi Đảng, 61 năm tuổi quân, ông đã chiến đấu, hy sinh trọn đời cho cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc. Đồng chí Chu Huy Mân đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng, Huân chương Sao Vàng; Huân chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Quân công hạng Nhất; Huân Chương Độc lập hạng Nhất, Huy hiệu Xô viết Nghệ Tĩnh... và nhiều phần thưởng cao quý khác. Tên đồng chí Chu Huy Mân đã được đặt cho nhiều con đường phố trên cả nước và quê hương thành phố Đỏ Nghệ An. Để tưởng nhớ, tri ân, học tập gương sáng của Đại tướng Chu Huy Mân, Nhà tưởng niệm đồng chí được xây dựng khang trang tại khu vườn cũ của gia đình ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh. Tỉnh ủy Nghệ An đã vinh danh Chu Huy Mân trong tập sách “ Nghệ An những tấm gương Cộng sản”./.
Chu Văn Điều sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đông con, cha mất sớm, mẹ phải tần tảo làm thuê cuốc mướn để nuôi con. Lớn lên trong cảnh đói nghèo, hàng năm cứ đến mùa nạp sưu, thuế, những người trong gia đình luôn bị bọn địa chủ và lý trưởng trong làng đánh đập, ức hiếp. Mối thù nhà, nợ nước chồng chất, Điều quyết nuôi chí phục thù. Giữa năm 1929, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, Ban chấp hành Trung ương Đông Dương Cộng sản đảng đã cử các đồng chí: Nguyễn Phong Sắc (quê ở Hà Nội) và Trần Văn Cung (quê Nghi Lộc) vào thành phố Vinh hoạt động để xây dựng các tổ chức cách mạng, thành lập các tổ chức: Công hội Đỏ, Nông hội Đỏ, Hội Tán trợ, xúc tiến thành lập Đông Dương Cộng sản đảng của Xứ ủy Trung Kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ, phong trào cách mạng ở Nghệ An đã phát triển mạnh và chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác.
Là một thanh niên yêu nước, khi được tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, Chu Văn Điều hăng hái tham gia giao thông liên lạc cho các đồng chí Lê Mao, Nguyễn Thức Mẫn và chị Nguyễn Thị Vĩnh (tức Minh Khai), vận động nông dân làng Yên Lưu gia nhập tổ chức Nông hội Đỏ. Ngày 29/10/1929, dưới sự lãnh đạo lãnh đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng, Chu Văn Điều sát cánh cùng 300 nông dân đi đấu tranh đòi giảm sưu cao, thuế nặng cho nông dân. Nhân kỷ niệm lần thứ 12 Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917- 7/11/1929), Chu Văn Điều cùng những thanh niên trong làng đi rải truyền đơn, treo cờ đỏ búa liềm trên các cây cao, đình làng và nơi nhân dân họp chợ đông người. Truyền đơn và khẩu hiệu ủng hộ cách mạng tháng Mười Nga có nội dung: “Đánh đổ thực dân Pháp và phong kiến Nam triều”;“ Công nhân làm việc 8 giờ, nông dân có ruộng cày”, khí thế đấu tranh hùng dũng của nông dân làm cho Chu Văn Điều như sáng mắt sáng lòng.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Chu Văn Điều được các đồng chí Lê Mao, Lê Doãn Sửu, Nguyễn Thức Mẫn tin tưởng giao làm đội phó Đội tự vệ. Trong các cuộc đấu tranh ngày 1/5/1930 và ngày 12/9/1930, Chu Huy Mân dũng cảm, giương cao cờ đỏ búa liềm, dẫn đầu đoàn biểu tình, vừa trấn áp kẻ thù vừa bảo vệ dân làng đi đấu tranh. Vào một đêm đông tháng 11/1930, Chi bộ đảng làng Yên Lưu tổ chức làm lễ kết nạp Chu Văn Điều vào đội ngũ những người Cộng sản tại nhà đồng chí Chu Văn Chín, khi anh 17 tuổi.
Cuối năm 1930, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, để duy trì và bảo vệ công tác tuyên truyền, cơ quan ấn loát của Xứ ủy Trung Kỳ phải chuyển từ nhà Mẹ Lộc ở Bến Đền (Vinh) về nhà ông Đinh Hồ ở xóm Đồng Mả, Yên Lưu (nay là làng Phong Đăng, xã Hưng Hòa, TP Vinh). Chu Văn Điều được cử làm đội trưởng đội Tự vệ Đỏ, có nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí: Nguyễn Thị Phúc, Chu Văn Biên, Nguyễn Lập và Nguyễn Thị Thảo, cơ quan ấn loát của Xứ ủy Trung Kỳ. Chu Huy Mân đã chỉ huy Đội tự vệ làng Yên Lưu tổ chức, vận động nam, nữ thanh niên tham gia luyện tập quân sự, bảo vệ quần chúng trong các cuộc đấu tranh và trừng trị bọn phản cách mạng, lấy lúa của nhà giàu chia cho dân nghèo, lấy ruộng đất công của làng xã đem chia cho những gia đình nghèo, mở các lớp học chữ Quốc ngữ cho nhân dân, tập văn nghệ, bài trừ mê tín dị đoan, tổ chức đám cưới, đám tang theo đời sống mới.
Đề phòng khi cơ sở ấn loát ở nhà ông Đinh Hồ bị lộ, Chu Huy Mân đã tìm thêm địa điểm mới là nhà Bõ Kinh, làm nghề chài lưới bên sông Rào Đừng giáp với huyện Nghi Lộc phòng khi địch khủng bố dễ có đường rút lui. Mặc dù kẻ địch đã cho bọn mật thám dò la, lùng sục trong thời kỳ khủng bố trắng, nhưng truyền đơn, báo chí của Đảng kêu gọi và định hướng đấu tranh, báo Người Lao khổ của cơ quan Xứ ủy Trung kỳ, báo Tiến Lên của Tỉnh uỷ Nghệ An vẫn được in ấn đều, phân phát đến tận các Chi bộ để cổ vũ và uốn nắn công nông đấu tranh chống khủng bố trắng, giảm bớt tổn thất cho cách mạng.
Tháng 6/1931, do có kẻ phản bội chỉ điểm, cả hai cơ sở ấn loát tại nhà ông Đinh Hồ và nhà Bõ Kinh cạnh bờ sông đều bị địch vây ráp, đồng chí Chu Văn Biên đi phân phát tài liệu trở về đã bị bọn lính đón bắt. Chu Huy Mân bình tĩnh cất dấu hết tài liệu và dụng cụ in ấn rồi dẫn đồng chí Nguyễn Thị Phúc ven theo bờ sông, ông Lê Văn Trường làm nghề chài lưới bắt cá trên sông đã chở qua xã Nghi Thái (huyện Nghi Lộc) thoát thân. Chu Huy Mân chạy vào làng đánh lạc hướng bọn địch để giải thoát cho chị Phúc. Đồng chí đến nhà bà Đinh Thị Giới xóm Phong Yên, lách cửa bếp vào nhà. Chờ bọn lính rút khỏi làng, ông Trường liền dẫn Chu Huy Mân xuống Đền Bà Cô ẩn náu. Ông Trường là tộc trưởng dòng họ Lê, người cầm chìa khóa trông coi và hương khói ở Đền Bà Cô, hàng ngày vợ chồng ông lo cơm nước, nuôi Chu Huy Mân cho đến khi không còn bọn lính rình mò thì mới chèo đò đưa sang huyện Nghi Lộc, nơi cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ đang đóng.
Năm 1935, nhiều đồng chí tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh bị bắt đã được ra tù, đồng chí Chu Huy Mân và Võ Trọng Ân (người làng Phù Xá, phủ Hưng Nguyên) đã tìm bắt liên lạc với các đồng chí Tỉnh ủy Nghệ An và huyện Nghi Lộc, bí mật họp tại nhà thờ Chi Cụ Tú Lang ở làng Phù Xá, khôi phục lại các Chi bộ của phủ Hưng Nguyên, đồng chí Chu Huy Mân được bầu làm Bí thư Phủ ủy, Võ Trọng Ân làm Phó Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của Phủ ủy, các tổ chức quần chúng cách mạng hoạt động rất sôi nổi. Sau thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), thực dân Pháp trở mặt, ra lệnh truy lùng vây bắt các chiến sĩ Cộng sản ở Nghệ Tĩnh, kể cả các đồng chí vừa được ra tù.Tháng 5/1940, Chu Huy Mân, Võ Trọng Ân và lớp đảng viên ở Nghệ An đều bị bắt giam tại Nhà lao Vinh. Chu Huy Mân,Võ Trọng Ân lần lượt bị đày giam ở các nhà tù: Ngục Kon Tum, Buôn Ma Thuột, Đăk Tô. Trong các nhà tù đế quốc, kẻ thù đã dùng mọi âm mưu thủ đoạn, tra tấn cực hình, rồi mua chuộc dụ dỗ, nhưng vẫn không làm Chu Huy Mân sờn lòng nản chí. Những ngày trong tù, đồng chí luôn giữ vững niềm tin, đoàn kết đấu tranh, sẵn sàng tìm thời cơ để vượt ngục. Tháng 3/1943, Mặt trận Việt Minh hoạt động mạnh, Chu Huy Mân, Nguyễn Duy Trinh, Huỳnh Ngọc Huệ, Hà Thế Hạnh đã bí mật tổ chức vượt ngục thành công, theo đường 19 tìm về Nghệ An. Trên đường đi, bị bọn lính và mật thám truy lùng, Chu Huy Mân bàn với các chiến sĩ vượt ngục ở lại để tham gia vào Ban Việt Minh của tỉnh Quảng Nam, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chu Huy Mân được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, sau đó được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quân chính 4 tỉnh Trung bộ, Xứ ủy Trung Kỳ. Khi nước nhà giành được độc lập, Chu Huy Mân làm Chủ tịch Ủy ban quân chính Khu C (gồm Quảng Nam, thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng Bình), Chính trị viên Mặt trận đường 9 Đông Hà -Xavanakhẹt.
Tháng 12/1946, đồng chí Chu Huy Mân được Trung ương Đảng điều động ra Việt Bắc làm Trưởng Ban Kiểm tra xây dựng Đảng Quân khu ủy Việt Bắc. Sau đó lần lượt giữ các chức vụ: Trung đoàn trưởng Trung đoàn 72, Bí thư Đảng ủy, Trung đoàn 74 Cao Bằng, Chính ủy Trung đoàn 174 Cao - Bắc-Lạng. Tháng 5/1951, đồng chí giữ chức Phó Chính ủy, rồi Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn 316, chỉ huy Đại đoàn tham gia các chiến dịch lớn. Ngày 13/3/1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy Đại đoàn 316, chỉ huy bộ đội đánh các trận: đồi C1; C2, đồi A1, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, tham gia trận đánh cuối cùng bắt tướng Đờ Cát, góp phần lập công vào“Chiến thắng Điện Biên chấn động địa cầu”.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, thực hiện lời dạy của Bác Hồ“Giúp bạn chính là giúp mình”, với tinh thần quốc tế cao cả, tháng 5/1957, Chu Huy Mân được Trung ương điều động sang Sầm Nưa để giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang. Năm 1958, Chu Huy Mân được phong quân hàm Thiếu tướng. Ông luôn được Đảng, Quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào yêu mến gọi là “Tướng Thao Chăn”. Sau đó, Chu Huy Mân nhận được lệnh Trung ương Đảng điều động giữ chức vụ Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu Bốn, rồi làm Bí thư Đảng ủy Quân khu Tây Bắc.
Tháng 12/1960, lần thứ hai, Chu Huy Mân được Đảng và Bác Hồ điều động làm Tổng cố vấn cho Chính phủ Liên hiệp Lào. Năm 1961, Chu Huy Mân trở về nước làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy kiêm Tư lệnh Quân khu bốn. Năm 1962, đồng chí được Quân đội cử sang Liên Xô học tại Học viện Phowrunde. Cuối năm 1963, khi chiến trường Khu 5 gặp nhiều khó khăn, Chu Huy Mân được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ vào chỉ đạo lực lượng vũ trang Quân khu 5 chiến đấu. Năm 1964, được Bộ Chính trị và Bác Hồ tin tưởng giao làm Chính ủy Quân khu, Bí thư Khu ủy Liên khu 5, Chu Huy Mân đã góp công lớn vào các chiến thắng Ba Gia, Núi Thành, Vạn Tường, rồi xây dựng vành đai diệt Mỹ ở Chu Lai... Tháng 9/1965, sau chiến thắng Chu Lai, với biệt danh“Hai Mạnh”, Chu Huy Mân đã có một quyết định táo bạo: Không mở chiến dịch giải phóng Bắc Tây Nguyên mà chuyển sang mở chiến dịch Plâyme - Ia Đrăng. Là Bí thư Đảng ủy,Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận B3-Tây Nguyên, Chu Huy Mân lãnh đạo và chỉ huy tài tình, táo bạo, chiến dịch Plâyme, quân đội ta đã tiêu diệt gọn 305 lính Mỹ, buộc quân Mỹ phải thừa nhận:“Một trận chiến đấu làm thay đổi cục diện chiến tranh”.
Với kinh nghiệm đánh địch của một anh Tự vệ Đỏ năm 1930, Chu Huy Mân đã đúc rút kinh nghiệm để có những trận quyết chiến huyền thoại trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của “Anh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Năm 1974, với tài giỏi chỉ huy và có nhiều sáng kiến, đa tài, đức độ, xứng danh “ Hai Mạnh”, Chu Huy Mân được thăng quân hàm vượt cấp, từ Thiếu tướng lên Thượng tướng.Trong chiến dịch năm 1975, Chu Huy Mân là Chính ủy giải phóng Đà Nẵng và một số đảo. Năm 1980, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Chu Huy Mân được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được BCH TƯ Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Trưởng ban Kiểm tra Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (1977- 1986), phụ trách công tác giúp cách mạng Lào, Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc (1980). Đồng chí Chu Huy Mân là Đại biểu Quốc hội các khóa: II,VI,VII, được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước khóa VII (1981-1986) là Ủy viên BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam các khóa II, IV,V, Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV và V…
Do tuổi cao sức yếu, cùng với những vết thương bị tra tấn trong các nhà tù đế quốc và bom đạn ở chiến trường, ngày 1/7/2006, Đại tướng Chu Huy Mân đã trút hơi thở cuối cùng trong niềm thương tiếc vô hạn của gia đình, đồng chí và đồng đội, hưởng thọ 93 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội.
Chu Huy Mân, vị Đại tướng đa tài, bản lĩnh, nhạy cảm, trí tuệ và rất tình cảm, được Bác Hồ vinh danh là “Hai Mạnh”. Với 76 năm tuổi Đảng, 61 năm tuổi quân, ông đã chiến đấu, hy sinh trọn đời cho cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc. Đồng chí Chu Huy Mân đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng, Huân chương Sao Vàng; Huân chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Quân công hạng Nhất; Huân Chương Độc lập hạng Nhất, Huy hiệu Xô viết Nghệ Tĩnh... và nhiều phần thưởng cao quý khác. Tên đồng chí Chu Huy Mân đã được đặt cho nhiều con đường phố trên cả nước và quê hương thành phố Đỏ Nghệ An. Để tưởng nhớ, tri ân, học tập gương sáng của Đại tướng Chu Huy Mân, Nhà tưởng niệm đồng chí được xây dựng khang trang tại khu vườn cũ của gia đình ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh. Tỉnh ủy Nghệ An đã vinh danh Chu Huy Mân trong tập sách “ Nghệ An những tấm gương Cộng sản”./.
Trương Quế Phương
Tags: Đại tướng Chu Huy Mân